PII Chapter 5

Tiếng Việt

Trần Trọng Kim
Việt Nam Sử Lược
Phần II : Bắc-Thuộc Thời-Đại
(11 tr. Tây-lịch-931 sau Tây-lịch)
PII-Chương 5
Bắc Thuộc Lần Thứ Ba

(603 - 939)

  1. Nhà Tùy.
    1. Việc đánh Lâm Ấp
  1. Nhà Đường
    1. Chính trị nhà Đường
    2. An Nam đô hộ phủ
    3. Mai Hắc Đế
    4. Giặc bể
    5. Bố Cái Đại Vương
    6. Việc đánh nước Hoàn Vương
    7. Nam Chiếu cướp phá Giao Châu
    8. Cao Biền bình giặc Nam Chiếu
    9. Công việc của Cao Biền
    10. Sự trị loạn của nước Tàu
  1. Đời Ngũ Quí
    1. Tình thế nước Tàu
    2. Họ Khúc dấy nghiệp: Khúc Thừa Dụ
    3. Khúc Hạo
    4. Khúc Thừa Mỹ
    5. Dương Diên Nghệ và Kiểu Công Tiện
    6. Ngô Quyền phá quân Nam Hán

I. Nhà Tùy (589 - 617)

1. Việc Đánh Lâm Ấp.

Nhà Tùy làm vua bên Tàu được 28 năm thì mất. Trong bấy nhiêu năm thì sử không chép chuyện gì lạ, chỉ nói rằng năm Ất Sửu (605), vua nhà Tùy nghe nói ở Lâm Ấp có nhiều của, bèn sai tướng là Lưu Phương đem quân đi đánh. Vua Lâm Ấp lúc bấy giờ là Phạm Phạm Chí đem quân ra giữ những chỗ hiểm yếu, ở bên này sông Đồ Lê (?) để chống cự với quân Tàu. Nhưng chẳng bao lâu quân Lâm Ấp phải thua bỏ chạy. Lưu Phương thừa kế tiến quân sang sông đuổi đánh, gặp đại binh Lâm Ấp kéo đến, có nhiều voi thế rất mạnh. Lưu Phương bèn dùng mưu: sai quân đào hố lấy cỏ phủ lên, rồi sai quân ra đánh nhử, giả tảng bại trận. Quân Lâm Ấp đuổi theo được một quãng, voi sa xuống hố, quân sĩ loạn cả. Khi bấy giờ quân Tàu mới quay trở lại lấy cung nỏ bắn, voi khiếp sợ xéo cả lên quân Lâm Ấp mà chạy. Lưu Phương cũng phải bệnh về đến nửa đường thì chết.

II. Nhà Đường (618 - 907)

1. Chính Trị Nhà Đường.

Năm Mậu Dần (618) nhà Tùy mất nước, nhà Đường kế nghiệp làm vua nước Tàu. Đến năm Tân Tị (621) vua Cao Tổ nhà Đường sai Khâu Hòa làm Đại Tổng Quản sang cai trị Giao Châu.

Từ khi nước ta thuộc về nước Tàu, chỉ có nhà Đường cai trị là nghiệt hơn cả. Nhưng sử chép lược quá: thường cách hai ba năm mới chép một việc, chắc là những nhà làm sử nước ta sau cứ theo sử Tàu chép lại, cho nên mới sơ lược như vậy.

2. An Nam Đô Hộ Phủ.

Năm Kỹ Mão (678) vua Cao Tông nhà Đường chia đất Giao Châu ra làm 12 châu, 59 huyện, và đặt An Nam đô hộ phủ18.

Nước ta gọi là An Nam khởi đầu từ đấy.

Mười hai Châu đời nhà Đường là những châu này:

  1. Giao Châu có 8 huyện (Hà Nội, Nam Định v. v.)
  2. Lục Châu có 3 huyện (Quảng Yên, Lạng Sơn)
  3. Phúc Lộc Châu có 3 huyện (Sơn Tây)
  4. Phong Châu có 3 huyện (Sơn Tây)
  5. Thang Châu có 3 huyện (?)
  6. Trường Châu có 4 huyện (?)
  7. Chí Châu có 7 huyện (?)
  8. Võ Nga Châu có 7 huyện (?)
  9. Võ An Châu có 2 huyện (?)
  10. Ái Châu có 6 huyện (Thanh Hóa)
  11. Hoan Châu có 4 huyện (Nghệ An)
  12. Diên Châu có 7 huyện (Nghệ An)

Ở về phía Tây Bắc đất Giao Châu lại đặt một châu nữa, gọi là Man Châu gồm cả những Mường ở mạn ấy, lệ cứ hằng năm phải triều cống vua nhà Đường.

Ấy là đại để cách chính trị nhà Đường như vậy. Còn thường thì cũng loạn lạc luôn: khi thì người trong nước nổi lên đánh phá như Mai Hắc Đế và Bố Cái Đại Vương: khi thì những nước ở ngoài vào xâm phạm, như nước Hoàn Vương và nước Nam Chiếu.

3. Mai Hắc Đế (722).

Năm Nhâm Tuất (722) là năm Khai Nguyên thứ 10 về đời vua Huyền Tông nhà Đường, ở Hoan Châu có một người tên là Mai Thúc Loan nổi lên chống cự với quân nhà Đường.

Mai Thúc Loan là người huyện Thiên Lộc, tức là huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh bây giờ, mặt mũi đen sì, sức vóc khỏe mạnh, thấy quan nhà Đường làm nhiều điều tàn bạo, dân gian khổ sở, lại nhân lúc bấy giờ lắm giặc giã, ông ấy bèn chiêu mộ những người nghĩa dũng, rồi chiếm giữ lấy một chỗ ở đất Hoan Châu (nay thuộc huyện Nam Đường tỉnh Nghệ An) rồi xây thành đắp lũy, xưng hoàng đế, tục gọi là Hắc Đế.

Mai Hắc Đế lại kết hiếu với nước Lâm Ấp và nước Chân Lạp để làm ngoại viện.

Vua nhà Đường sai quan nội thị là Dương Tư Húc đem quân sang cùng với quan Đô Hộ là Quang Sở Khách đi đánh Mai Hắc Đế. Mai Hắc Đế thế yếu chống không nổi phải thua chạy, được ít lâu thì mất. Nay ở núi Vệ Sơn huyện Nam Đường, tỉnh Nghệ An, còn có di tích thành cũ của vua Hắc Đế, và ở xã Hương Lãm, huyện Nam Đường còn có đền thờ.

4. Giặc Bể.

Năm Đinh Vị (767) là năm Đại Lịch thứ 2, đời vua Đại Tông nhà Đường, sử chép rằng có quân Côn Lôn và quân Đồ Bà là quân ở những đảo ngoài bể vào cướp phá đất Giao Châu, lên vây các châu thành.

Quan Kinh Lược Sứ là Trương Bá Nghị cùng với quan Đô Úy là Cao Chính Bình đem quân đánh phá được lũ giặc ấy. Trương Bá Nghi bèn đắp La Thành để phòng thủ phủ trị. La Thành khởi đầu từ đấy.

5. Bố Cái Đại Vương (791).

Năm Tân Vị (791) quan Đô Hộ là Cao Chính Bình bắt dân đóng sưu thuế nặng quá, lòng dân oán hận. Khi bấy giờ ở quận Đường Lâm (bây giờ là làng Cam Lâm, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây) có người tên là Phùng Hưng nổi lên đem quân về phá phủ Đô Hộ. Cao Chính Bình lo sợ thành bệnh mà chết. Phùng Hưng mới chiếm giữ phủ thành, được mấy tháng thì mất. Quân sĩ lập con Phùng Hưng là Phùng An lên nối nghiệp. Dân ái mộ Phùng Hưng mới lập đền thờ và tôn lên làm Bố Cái Đại Vương, bởi vì ta gọi cha là bố, mẹ là cái, nghĩa là tôn Phùng Hưng lên làm cha mẹ.

Tháng 7 năm Tân Vị ấy, vua nhà Đường sai Triệu Xương sang làm Đô Hộ. Phùng An liệu thế chống không nổi xin ra hàng.

6. Việc Đánh Nước Hoàn Vương.

Nước Lâm Ấp từ khi bị tướng nhà Tùy là Lưu Phương sang đánh, rồi quốc vương là Phạm Phạm Chí dâng biểu tạ tội và xin triều cống như cũ. Đến quãng năm Trinh Quan đời vua Thái Tông nhà Đường, vua Lâm Ấp là Phạm Đầu Lê mất, con là Phạm Trấn Long cũng bị người giết, dân trong nước mới lập người con của bà cô Phạm Đầu Lê, tên là Chư Cát Địa lên làm vua.

Chư Các Địa đổi quốc hiệu là Hoàn Vương Quốc. Từ đó về sau thường người nước hoàn vương lại sang quấy nhiễu ở giao châu, và chiếm giữ lấy Châu Hoan và Châu Ái.

Năm Mậu Tí (808) đời vua Hiến Tông, quan Đô Hộ là Trương Chu đem binh thuyền đi đánh giết hại quân Hoàn Vương rất nhiều. Vua nước ấy bèn lui về ở phía Nam (ở vào quãng tỉnh Quảng Nam, Quảng Nghĩa bây giờ) và đổi quốc hiệu là Chiêm Thành.

7. Nam Chiếu Cướp Phá Giao Châu.

Về cuối đời nhà Đường, quan lại Tàu lắm người chỉ vì tư lợi, ức hiếp nhân dân như Đô Hộ Lý Trác cứ vào những chợ ở chỗ Mường Mán mua trâu mua ngựa, mỗi con chỉ trả có một đấu muối, rồi giết tù trưởng mán là Đỗ Tồn Thành. Vì thế cho nên người Mường Mán tức giận bèn dụ người Nam Chiếu sang cướp phá, làm cho dân Giao Chỉ khổ sở trong 10 năm trời.

Ở phía Tây Bắc đất Giao Châu, tức là ở phía Tây tỉnh Vân Nam bây giờ có một xứ người nòi Thái ở. Người xứ ấy gọi vua là chiếu. Trước có 6 chiếu là Mông Huề, Việt Thác, Lãng Khung, Đằng Đạm, Thi Lãng, Mông Xá. Chiếu Mông Xá ở về phía Nam nên gọi là Nam Chiếu.

Trong khoảng năm Khai Nguyên (713-742) đời vua Huyền Tông nhà Đường, Nam Chiếu là Bì La Cáp cường thịnh lên, mà 5 chiếu kia suy hèn đi. Bì La Cáp mới đút lót cho quan Tiết Độ Sứ đạo Kiếm Nam là Vương Dục để xin hợp cả 6 chiếu lại làm một. Triều đình nhà Đường thuận cho, và đặt tên là Qui Nghĩa. Từ đó Nam Chiếu càng ngày càng thịnh lên, đem quân đi đánh Thổ Phồn (Tây Tạng) rồi dời đô lên đóng ở thành Thái Hòa (thành Đại Lý bây giờ).

Năm Bính Dần (846) quân Nam Chiếu sang cướp ở Giao Châu, quan Kinh Lược Sứ là Bùi Nguyên Dụ đem quân đánh đuổi đi.

Năm Mậu Dần (858), nhà Đường sai Vương Thức sang làm Kinh Lược Sứ. Vương Chức là người có tài lược, trị dân có phép tắc, cho nên những giặc giã đều dẹp yên được cả, mà quân Mường và quân Nam Chiếu cũng không dám sang quấy nhiễu.

Năm Canh Thìn (860), nhà Đường gọi Vương Thức về làm Quan Sát Sứ ở Tích Đông và sai Lý Hộ sang làm Đô Hộ.

Bấy giờ Nam Chiếu đã mạnh lắm, bèn xưng đế và đặt quốc hiệu là Đại Mông rồi lại đổi là Đại Lễ19. Lý Hộ giết người tù trưởng là Đỗ Thủ Trừng, người Mường lại đi dụ quân Nam Chiếu sang đánh lấy mất phủ thành. Lý Hộ phải bỏ chạy về Tàu. Vương Khoan đem binh sang cứu, quân Nam Chiếu bỏ thành rút về.

Năm Nhâm Ngọ (862), quân Nam Chiếu sang đánh Giao Châu, nhà Đường sai Thái Tập đem ba vạn quân sang chống giữ. Quân Nam Chiếu thấy quân nhà Đường nhiều lại rút về. Bấy giờ có quan Tiết Độ Sứ Lĩnh Nam là Thái Kinh sợ Thái Tập lập được công to bèn mật tâu với vua nhà Đường rằng Giao Châu đã yên, thì nên rút quân về. Thái Tập xin để lại 5.000 quân cũng không được.

Tháng giêng năm Quí Mùi (863), Nam Chiếu đem 50.000 quân sang đánh phủ thành. Thái Tập cứu không kịp, thế bức quá phải tự tử. Trận ấy có tướng nhà Đường là Nguyên Duy Đức đem hơn 400 quân Kinh Nam chạy ra đến bờ sông, thuyền bè không có, Nguyên Duy Đức bảo chúng rằng chạy xuống nước cũng chết, bất nhược trở lại đánh nhau với giặc, một người đổi lấy hai người thì chẳng lợi hơn hay sao. Nói đoạn quay trở lại giết được hơn 2.000 người, nhưng đêm đến tướng Nam Chiếu laà Dương Tư Tấn đem binh đến đánh, bọn Nguyên Duy Đức chết cả.

Quân Nam Chiếu vào thành giết hại rất nhiều người. Sử chép rằng Nam Chiếu hai lần sang đánh phủ thành, giết người Giao Châu hơn 15 vạn.

Vua Nam Chiếu là Mông Thế Long cho Dương Tư Tấn quản lĩnh 20.000 quân và cho Đoàn Tù Thiên làm Tiết Độ Sứ ở lại giữ Giao Châu.

Vua nhà Đường hạ chỉ đem An Nam Đô Hộ Phủ về đóng ở Hải Môn (?) rồi lấy quân các đạo về ở Lĩnh Nam và đóng thuyền lớn để tải lương thực, đợi ngày tiến binh.

Mùa Thu năm Giáp Thân (864) vua nhà Đường sai tướng là Cao Biền sang đánh quân Nam Chiếu ở Giao Châu.

8. Cao Biền Bình Giặc Nam Chiếu.

Cao Biền là người tướng giỏi nhà Đường, vốn dòng võ tướng môn, tính ham văn học, quân sĩ đều có lòng mến phục.

Năm Ất Dậu (865), Cao Biền cùng với quan Giám Quân là Lý Duy Chu đưa quân sang đóng ở Hải Môn. Nhưng Lý Duy Chu không ưa Cao Biền, muốn tìm mưu làm hại. Hai người bàn định tiến binh. Cao Biền dẫn 5.000 quân đi trước, Lý Duy Chu không phát binh tiếp ứng.

Tháng chín năm ấy quân rợ đang gặt lúc ở Phong Châu (huyện Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên), Cao Biền đến đánh cất lẻn một trận, giết được nhiều người, rồi lấy thóc gạo nuôi quân lính.

Đến tháng 4 năm sau (866), Nam chiếu cho bọn Dương Tập, Phạm Nê Ta, Triệu Nặc Mi sang giúp Đoàn Tù Thiên để giữ Giao Châu. Khi bấy giờ có tướng nhà Đường là Vi Trọng Tể đem 7.000 quân mới sang, Cao Biền nhân dịp mới phát binh đánh được mấy trận, cho người đưa tin thắng trận về Kinh, nhưng mà đi đến Hải Môn, Lý Duy Chu giữ lại, không cho triều đình biết.

Trong triều mãi không thấy tin tức gì, cho ra hỏi, thì Lý Duy Chu tâu dối rằng Cao Biền đóng quân ở Phong Châu không chịu đánh giặc. Vua nghe tin ấy, nổi giận sai Vương Án Quyền ra thay, và đòi Cao Biền về hỏi tội. Ngay tháng ấy Cao Biền phá quân Nam Chiếu và vây La Thành đã hơn 10 ngày rồi, chỉ nay mai thì lấy được, bỗng chốc được tin Vương Án Quyền và Lý Duy Chu sang thay. Cao Biền liền giao binh quyền cho Vi Trọng Tể, rồi cùng với mấy người thủ hạ về Bắc. Nhưng trước Cao Biền đã sai người lẻn về Kinh dâng biểu tâu rõ tình trạng. Vua nhà Đường biết rõ sự tình, mừng lắm, lại cho Cao Biền thăng trật và sai trở sang cầm quân đánh Nam Chiếu.

Bọn Vương Án Quyền và Lý Duy Chu lười biếng không vây đánh gì cả, đến khi Cao Biền trở sang mới đốc quân binh đánh thành, giết được Đoàn Tù Thiên và người thổ làm hướng đạo là Chu Cổ Đạo. Còn những động Mán Thổ ở các nơi xin về hàng rất nhiều.

Đất Giao Châu bị Nam Chiếu phá hại vừa 10 năm, đến bấy giờ Cao Biền lấy lại, đem về nội thuộc nhà Đường như cũ.

9. Công Việc Của Cao Biền.

Vua nhà Đường đổi An Nam làm Tĩnh Hải, phong cho Cao Biền làm Tiết Độ Sứ. Cao Biền chỉnh đốn mọi công việc, lập đồn ải ở mạn biên thùy để phòng giữ giặc giã, làm sổ sưu thuế để chi dụng việc công20. Cao Biền trị dân có phép tắc cho nên ai cũng kính phục, bởi vậy mới gọi tôn lên là Cao Vương.

Cao Biền đắp lại thành Đại La ở bờ sông Tô Lịch. Thành ấy bốn mặt dài hơn 1982 trượng linh 5 thước, cao hai trượng linh 6 thước, đắp một đường đê bao bọc ở ngoài dài hơn 2125 trượng linh 8 thước, cao 1 trượng rưỡi, dày 2 thượng. Trong thành cho dân sự làm nhà hơn 40 vạn nóc (?).

Sử chép rằng Cao Biền dùng phép phù thủy khiến Thiên Lôi phá những thác ghềnh ở các sông để cho thuyền bè đi được. Thiên Lôi ấy có lẽ là Cao Biền dùng thuốc súng chăng?

Tục lại truyền rằng Cao Biền thấy bên Giao Châu ta lắm đất đai đế vương, thường cứ cỡi diều giấy đi yểm đất, phá những chỗ sơn thủy đẹp, và hại mất nhiều long mạch. Những chuyện ấy là chuyện ngoa ngôn, không có lẽ gì mà tin được.

Năm Ất Vị (875) vua nhà Đường sai Cao Biền sang làm Tiết Độ Sứ ở Tây Xuyên (Tứ Xuyên). Biền dâng người cháu họ là Cao Tầm làm Tiết Độ Sứ ở giao Châu.

Nhà Đường tuy lấy lại được đất Giao Châu nhưng bên Tàu lại sắp loạn, giặc cướp dần dần nổi lên, ngôi nhà vua cũng dần dần sắp đổ, nước Tàu lại chia rẽ làm mấy nước, cho nên ở xứ Giao Châu cũng có sự biến cải.

10. Sự Trị Loạn Của Nước Tàu.

Xét chuyện nước Tàu từ đời nhà Hán cho đến đời bấy giờ, cứ mỗi nhà lên cầm quyền chính trị được vài ba trăm năm, rồi trong nước lại biến loạn, Nam Bắc phân tranh độ chừng.

Phàm sự trị loạn thay đổi trong một xã hội là thường lý, nhưng chỉ lạ có một điều mấy lần bên Tàu loạn cũng tương tự như nhau cả. Xem như khi nhà Hán suy, thì nước Tàu phải loạn Tam Quốc; hết Tam Quốc thì có nhà Tấn nhất thống. Đến khi nhà Tấn suy, thì có Nam Bắc triều; hết Nam Bắc triều thì có nhà Đường nhất thống. Nay thì nhà Đường suy lại phải cái loạn Ngũ Quí. Cái cơ hội trị loạn bên Tàu giống nhau như thế là cũng có lẽ tại cái phong tục và cái xã hội của Tàu. Sự giáo dục không thay đổi, nhân quần trong nước không tiến bộ, cách tư tưởng không khai hóa, cho nên nước tuy lâu đời, mà trình độ xã hội vẫn đứng nguyên một chỗ. Khi có biến loạn là chỉ có mấy người có quyền thế tranh cạnh với nhau, chứ dân trong nước hễ thấy bên nào mạnh là làm tôi bên ấy. Nhà Hán làm vua là dân nhà Hán, nhà Đường làm vua là dân nhà Đường, việc gì cũng đổ cho thiên mệnh, làm dân chỉ biết thuận thụ một bề mà thôi.

Xứ Giao Châu mình tự đời nhà Hán cho đến đời Ngũ Quí vẫn là đất nội thuộc của Tàu, cho nên sự trị loạn bên Tàu cũng ảnh hưởng đến nước mình. Nhờ khi bên Tàu loạn lạc, người Tàu bận việc nước, thì bên Giao Châu cũng rục rịch tự lập được ba năm. Nhưng chỉ vì nước thì nhỏ, người thì ít, mà người trong nước lại không biết đồng tâm với nhau, không hiểu các lẽ hợp quần đoàn thể là thế nào, cho nên không thành công được.

III. Đời Ngũ Quí (907 - 959)

1. Tình Thế Nước Tàu.

Năm Đinh Mão (907) nhà Đường mất ngôi, nhà Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu, tranh nhau làm vua. Mỗi nhà được mấy năm, gồm tất cả là 52 năm, gọi là đời Ngũ Quí hay là Ngũ Đại.

2. Họ Khúc Dấy Nghiệp. Khúc Thừa Dụ (906 - 907).

Trước khi nhà Đường sắp mất ngôi độ mấy năm, thì bên Tàu loạn, giặc cướp nổi lên khắp cả mọi nơi. Uy quyền nhà vua không ra đến bên ngoài, thế lực ai mạnh thì người ấy xưng đế, xưng vương. Ở Giao Châu, lúc bấy giờ có một người họ Khúc tên là Thừa Dụ, quê ở Hồng Châu (thuộc địa hạt Bàng Giang và Ninh Giang ở Hải Dương). Khúc Thừa Dụ vốn là một người hào phú trong xứ, mà tính lại khoan hòa, hay thương người, cho nên có nhiều người kính phục. Năm Bính Dần (906) đời vua Chiêu Tuyên nhà Đường, nhân khi trong châu có loạn, chúng cử ông ấy lên làm Tiết Độ Sứ để cai trị Giao Châu. Nhà Đường lúc bấy giờ suy nhược, thế không ngăn cấm được, cũng thuận cho ông ấy làm Tĩnh Hải Tiết Độ Sứ và gia phong Đồng Bình Chương Sự.

Năm sau nhà Đường mất ngôi, nhà Hậu Lương phong cho Lưu Ẩn làm Nam Bình Vương, kiêm chức Tiết Độ Sứ Quảng Châu và Tĩnh Hải, có ý để lấy lại Giao Châu.

Khúc Thừa Dụ làm Tiết Độ Sứ được non một năm thì mất, giao quyền lại cho con là Khúc Hạo.

3. Khúc Hạo (907 - 917).

Khúc Hạo lên thay cha làm Tiết Độ Sứ, lập ra lộ, phủ, châu, xã ở các nơi, đặt quan lại, sửa sang việc thuế má, việc sưu dịch và lại cho con là Khúc Thừa Mỹ sang sứ bên Quảng Châu, tiếng là kết hiếu với nhau, nhưng cốt để dò thăm mọi việc hư thực.

Lưu Ẩn ở Quảng Châu đóng phủ trị ở Phiên Ngung được 4 năm thì mất. Em là Lưu Cung (trước gọi là Lưu Nham) lên thay. Được ít lâu nhân có việc bất bình với nhà Hậu Lương, Lưu Cung tự xưng đế, quốc hiệu là Đại Việt. Đến năm Đinh Sửu (947) cải quốc hiệu là Nam Hán.

4. Khúc Thừa Mỹ (917 - 923).

Năm Đinh Sửu (917) Khúc Hạo mất, truyền nghiệp lại cho con là Khúc Thừa Mỹ. Khúc Thừa Mỹ nhận chức Tiết Độ Sứ của nhà Lương, chứ không thần phục nhà Nam Hán. Vua nước Nam hán lấy sự ấy làm hiềm, đến năm Quí Mùi (923) sai tướng là Lý Khắc Chính đem quân sang đánh bắt được Khúc Thừa Mỹ, rồi sai Lý Tiến sang làm thứ sử cùng với Lý Khắc Chính giữ Giao Châu.

5. Dương Diên Nghệ và Kiểu Công Tiện (931 - 938).

Năm Tân Mão (931) Dương Diên Nghệ là tướng của Khúc Hạo ngày trước mới nổi lên, mộ quân đánh đuổi bọn Lý Khắc Chính và Lý Tiến đi, rồi tự xưng làm Tiết Độ Sứ. Được 6 năm, Dương Diên Nghệ bị người nha tướng là Kiểu Công Tiện giết đi mà cướp lấy quyền.

6. Ngô Quyền Phá Quân Nam Hán.

Khi ấy có người tướng của Dương Diên Nghệ là Ngô Quyền cử binh đi đánh Kiểu Công Tiện để báo thù cho chúa. Ngô Quyền là người làng Đường Lâm, cùng một làng với Phùng Hưng ngày trước (huyện Phú Thọ, tỉnh Sơn Tây) làm quan với Dương Diên Nghệ. Dương Diên Nghệ thấy người có tài trí mới gả con gái cho, và phong cho vào giữ Ái Châu (Thanh Hóa). Khi được tin Kiểu Công Tiện đã giết mất Dương Diên Nghệ, Ngô Quyền liền đem quân ra đánh.

Kiểu Công Tiện cho sang cầu cứu ở bên Nam Hán, Hán Chủ nhân dịp cho thái tử là Hoằng Tháo đưa quân đi trước, mình tự dẫn quân đi tiếp ứng.

Khi quân Hoằng Tháo vào gần đến sông Bạch Đằng, thì bên này Ngô Quyền đã giết được Kiểu Công Tiện (938), rồi một mặt truyền lệnh cho quân sĩ phải hết sức phòng bị, một mặt sai người lấy gỗ cặp sắt nhọn, cắm ngầm ở dưới lòng sông Bạch Đằng, xong rồi chờ đến lúc nước thủy triều lên, cho quân ra khiêu chiến; quân Nam Hán đuổi theo, đến lúc nước xuống, Ngô Quyền hồi quân đánh ập lại, quân Nam Hán thua chạy, bao nhiêu thuyền mắc vào cộc gỗ thủng nát mất cả, người chết quá nửa, Hoằng Tháo bị Ngô Quyền bắt được, đem về giết đi.

Hán Chủ nghe tin ấy, khóc òa lên, rồi đem quân về Phiên Ngung, không dám sang quấy nhiểu nữa.

Ngô Quyền trong thì giết được nghịch thần, báo thù cho chủ, ngoài thì phá được cường địch, bảo toàn cho nước, thật là một người trung nghĩa lưu danh thiên cổ, mà cũng nhờ có tay Ngô Quyền, nước Nam ta mới cởi được ách Bắc thuộc hơn một nghìn năm, và mở đường cho Đinh, Lê, Lý, Trần, về sau này được tự chủ ở cõi Nam vậy.


18 Nhà Đường lúc đó chia nhiều tỉnh bên Tàu ra làm Đô Hộ Phủ như Tứ Xuyên Đô Hộ Phủ, An Nam Đô Hộ Phủ, v.v.... Vậy Đô Hộ là một chức quan chứ không phải là một chính thể cai trị các thuộc địa như ta hiểu bây giờ.

19 Đến đời Ngũ Quý vào quãng nhà Hậu Tấn có người tên là Đoàn Tư Bình lên làm vua đổi quốc hiệu là Đại Lý, truyền đến đời Hồng Võ (1368-1392) nhà Minh mới mất. Nhà Minh đặt là Đại Lý Phủ, thuộc về tỉnh Vân Nam.

20 Có người bảo rằng người Việt Nam ta phải đóng sưu thuế khởi đầu từ Cao Biền. năm bảy mươi năm, khi ấy có một nhà đứng lên dẹp loạn yên nước, lập lên cơ nghiệp một nhà khác.

English

Tran Trong Kim
A Brief History of Vietnam
Part II: The Period of Northern Domination
(11 BC-931 AD)
PII-Chapter 5
The Third Period of Northern Domination

(603 - 939)

  1. The Sui Dynasty.
    1. The attack on Lam Ap
  1. Tang Dynasty
    1. Tang Dynasty Politics
    2. An Nam Protectorate
    3. Mai Hac De
    4. Sea Bandits
    5. Bo Cai Dai Vuong
    6. The Attack on Hoan Vuong
    7. Nan Zhao's Plunder of Giao Chau
    8. Cao Bien's Pacification of Nan Zhao's Bandits
    9. Cao Bien's Work
    10. The Chaos of China
  1. The Five Nobles Period
    1. The Situation of China
    2. The Khuc Family Rises: Khuc Thua Du
    3. Khuc Hao
    4. Khuc Thua My
    5. Duong Dien Nghe and Kieu Cong Tien
    6. Ngo Quyen Defeats the Southern Han Army

I. Sui Dynasty (589 - 617)

1. The Attack on Linyi.

The Sui Dynasty ruled China for 28 years and then fell. During those years, history did not record anything strange, only saying that in the year At Suu (605), the Sui Dynasty king heard that there was a lot of wealth in Linyi, so he sent his general Liu Fang to lead his army to attack. The king of Linyi at that time, Pham Pham Chi, led his army to guard the dangerous places, on this side of the Do Le River (?) to resist the Chinese army. But soon the Linyi army had to lose and flee. Liu Fang inherited the initiative and advanced his army across the river to fight, but met the large Linyi army coming, with many elephants, which were very strong. Liu Fang then used a trick: he ordered his army to dig a hole and cover it with grass, then sent his army out to attack, pretending to be defeated. The Linyi army chased for a while, the elephants fell into the hole, and the soldiers were in chaos. At that time, the Chinese army returned to shoot with bows and crossbows. The elephants were so frightened that they trampled on the Lam Ap army and ran away. Liu Fang also fell ill and died halfway back.

II. Tang Dynasty (618 - 907)

1. Politics of Tang Dynasty.

In the year Mau Dan (618), the Sui Dynasty lost its country, and the Tang Dynasty succeeded it as king of China. In the year Tan Ty (621), Emperor Gao Zu of Tang Dynasty sent Qiu He as Grand General to rule Giao Chau.

Since our country belonged to China, only the Tang Dynasty ruled more harshly. But the history was too brief: usually every two or three years, an event was recorded. It is likely that later historians of our country followed the Chinese history, so it is only brief like this.

2. An Nam Protectorate.

In the year Ky Mao (678), King Cao Tong of the Tang Dynasty divided Giao Chau into 12 provinces and 59 districts, and established An Nam Protectorate18.

Our country was called An Nam from then on.

The twelve provinces of the Tang Dynasty were these provinces:

  1. Giao Chau has 8 districts (Hanoi, Nam Dinh, etc.)
  2. Luc Chau has 3 districts (Quang Yen, Lang Son)
  3. Phuc Loc Chau has 3 districts (Son Tay)
  4. Phong Chau has 3 districts (Son Tay)
  5. Thang Chau has 3 districts (?)
  6. Truong Chau has 4 districts (?)
  7. Chi Chau has 7 districts (?)
  8. Vo Nga Chau has 7 districts (?)
  9. Vo An Chau has 2 districts (?)
  10. Ai Chau has 6 districts (Thanh Hoa)
  11. Hoan Chau has 4 districts (Nghe An)
  12. Dien Chau has 7 districts (Nghe An)

In the northwest of Giao Chau, another province was established, called Man Chau, including the Muongs in that area, and every year they had to pay tribute to the Tang Dynasty king.

That was the general political system of the Tang Dynasty. But often there was also chaos: sometimes people from within the country rose up to attack and destroy, such as Mai Hac De and Bo Cai Dai Vuong; sometimes foreign countries invaded, such as Hoan Vuong and Nam Chieu.

3. Mai Hac De (722).

In the year of Nham Tuat (722), the 10th year of Khai Nguyen under the reign of Emperor Huyen Tong of the Tang Dynasty, in Hoan Chau, there was a man named Mai Thuc Loan who rose up to resist the Tang Dynasty army.

Mai Thuc Loan was from Thien Loc district, which is now Can Loc district, Ha Tinh province. He had a dark face and strong physique. Seeing that the Tang Dynasty officials were committing many cruel acts, the people were suffering, and at that time there were many wars, he recruited brave people, then occupied a place in Hoan Chau (now Nam Duong district, Nghe An province), built a citadel and proclaimed himself emperor, commonly known as Hac De.

Mai Hac De also made friends with the Lam Ap and Chan Lap countries as foreign aid.

The Tang Dynasty king sent the eunuch Duong Tu Huc to lead troops to fight Mai Hac De with the Governor Quang So Khach. Mai Hac De was weak and could not resist, so he had to flee. After a short time, he died. Today, in Ve Son mountain, Nam Duong district, Nghe An province, there are still relics of the old citadel of King Hac De, and in Huong Lam commune, Nam Duong district, there is still a temple to worship him.

4. The Sea Bandits.

In the year Dinh Vi (767), the second year of Dai Lich, during the reign of King Dai Tong of the Tang Dynasty, history records that there were Kunlun troops and Tu Ba troops from the islands outside the sea who came to plunder Giao Chau land and besiege the citadels.

The Kinh Luoc Su, Truong Ba Nghi, together with the Do Uy, Cao Chinh Binh, led troops to defeat those bandits. Truong Ba Nghi then built La Thanh to defend the administrative office. La Thanh began from there.

5. Bo Cai Dai Vuong (791).

In Tan Vi (791), the Governor Cao Chinh Binh forced the people to pay too much tax, causing resentment among the people. At that time, in Duong Lam district (now Cam Lam village, Phuc Tho district, Son Tay province), a man named Phung Hung rose up and led troops to destroy the Governor's palace. Cao Chinh Binh was afraid of the city and died of illness. Phung Hung had just occupied the palace, but after a few months, he died. The soldiers appointed Phung Hung's son Phung An to succeed him. The people admired Phung Hung, so they built a temple and honored him as Bo Cai Dai Vuong, because we call our father "father" and our mother "daughter", which means to honor Phung Hung as our father and mother.

In the seventh month of Tan Vi, the Tang king sent Trieu Xuong to be the Governor. Phung An, unable to resist, surrendered.

6. The Attack on the Kingdom of Hoan Vuong.

The Kingdom of Lam Ap was attacked by the general of the Sui Dynasty, Liu Fang, and then the king, Pham Pham Chi, submitted a memorial to apologize and asked for tribute as before. Around the Trinh Quan year of the reign of King Thai Tong of the Tang Dynasty, the king of Lam Ap, Pham Dau Le, died, and his son, Pham Tran Long, was also killed. The people of the country established the son of Pham Dau Le's aunt, named Chu Cat Dia, as king.

Chu Cac Dia changed the country's name to Hoan Vuong Kingdom. From then on, the people of Hoan Vuong often came to harass Giao Chau, and occupied Chau Hoan and Chau Ai.

In the year of Mau Ti (808) of King Hien Tong, the Governor Truong Chu led troops and boats to attack and killed many Hoan Vuong soldiers. The king of that country then retreated to the South (in the area of ​​Quang Nam and Quang Nghia provinces today) and changed the country's name to Champa.

7. Nanzhao Plunders Giao Chau.

Towards the end of the Tang Dynasty, many Chinese officials, for their own benefit, oppressed the people, such as Do Ho Ly Trac, who went to the markets in the Muong Man area to buy buffaloes and horses, paying only one bushel of salt for each one, and then killed the Man chieftain Do Ton Thanh. Therefore, the Muong Man people were angry and lured the Nanzhao people to plunder, causing the people of Giao Chi to suffer for 10 years.

In the northwest of Giao Chau, which is now the west of Yunnan province, there was a land of Thai people. The people of that land called the king "Chieu". Before, there were 6 chieu: Mong Hue, Viet Thac, Lang Khung, Dang Dam, Thi Lang, Mong Xa. The Mong Xa chieu was in the south, so it was called Nam Chieu.

During the Khai Nguyen period (713-742) of King Huyen Tong of the Tang Dynasty, Nam Chieu, Bi La Cap, became strong and prosperous, while the other 5 chieus declined. Pi La Cap bribed the Governor of Kiem Nam, Vuong Duc, to merge all six edicts into one. The Tang Dynasty agreed, and named it Qui Nghia. From then on, Nam Chieu became more and more prosperous, sent troops to attack Tho Phon (Tibet), and then moved the capital to Thai Hoa city (now Dali city).

In the year of Binh Dan (846), the Nanzhao army invaded Giao Chau, and the Kinh Luoc Su, Bui Nguyen Du, led troops to repel them.

In the year of Mau Dan (858), the Tang Dynasty sent Vuong Thuc to be the Kinh Luoc Su. Vuong Chuc was a talented strategist and governed the people with rules, so all the rebels were pacified, and the Muong and Nanzhao armies did not dare to come and cause trouble.

In the year of Canh Thin (860), the Tang Dynasty called Vuong Thuc back to be the Quan Sat Su in Tich Dong and sent Ly Ho to be the Protectorate.

At that time, Nanzhao was very strong, so he declared himself emperor and named the country Dai Mong, then changed it to Dai Le19. Ly Ho killed the chieftain Do Thu Trung, and the Muong people lured the Nanzhao army to attack and take the citadel. Ly Ho had to flee back to China. Vuong Khoan led troops to rescue, and the Nanzhao army abandoned the citadel and retreated.

In the year of Nham Ngo (862), the army of Nam Chieu attacked Giao Chau, the Tang Dynasty sent Thai Tap to lead 30,000 troops to defend. The army of Nam Chieu saw that the Tang Dynasty had many troops and retreated. At that time, the Governor of Linh Nam, Thai Kinh, was afraid that Thai Tap would make great achievements, so he secretly informed the Tang Dynasty king that Giao Chau was at peace, so they should retreat. Thai Tap asked to leave 5,000 troops but was not allowed.

In the first month of the year of Quy Mui (863), Nam Chieu brought 50,000 troops to attack the capital. Thai Tap could not save them in time, the situation was too overwhelming and he committed suicide. In that battle, the Tang Dynasty general Nguyen Duy Duc led more than 400 Kinh Nam troops to the riverbank, but there were no boats. Nguyen Duy Duc told them that running into the water would also kill them, so it would be better to return to fight the enemy, wouldn't it be better to exchange one for two? After saying that, he returned and killed more than 2,000 people, but at night, the general of Nanzhao, Yang Sijin, brought troops to attack, and Nguyen Duy Duc and his men all died.

The Nanzhao army entered the city and killed many people. History records that Nanzhao attacked the city twice, killing more than 150,000 people from Giao Chau.

The Nanzhao king, Mong The Long, gave Duong Tu Tan command of 20,000 troops and appointed Doan Tu Thien as the Governor to stay and guard Giao Chau.

The Tang king issued an order to bring An Nam Do Ho Phu to Hai Mon (?) and then gathered troops from the provinces to Linh Nam and built large ships to transport food, waiting for the day to advance.

In the fall of the year Giap Than (864), the Tang king sent general Cao Bien to attack the Nanzhao army in Giao Chau.

8. Cao Bien Defeats the Nanzhao Rebels.

Cao Bien was a talented general of the Tang Dynasty, originally from a military family, fond of literature, and admired by all the soldiers.

In the year of At Dau (865), Cao Bien and the Military Supervisor Ly Duy Chu led troops to station at Hai Mon. But Ly Duy Chu did not like Cao Bien and wanted to find a plan to harm him. The two discussed the plan to advance. Cao Bien led 5,000 troops to go first, Ly Duy Chu did not send troops to support.

In September of that year, the barbarians were harvesting in Phong Chau (Bach Hac district, Vinh Yen province). Cao Bien came and attacked them, killed many people, and then took the rice to feed the soldiers.

In April of the following year (866), the Southern edict ordered Duong Tap, Pham Ne Ta, and Trieu Nac Mi to go help Doan Tu Thien to defend Giao Chau. At that time, a Tang general named Vi Trong Te brought 7,000 new troops to the capital. Cao Bien took advantage of the opportunity to send a few battles to the capital to send news of the victory, but when he reached Hai Mon, Ly Duy Chu held him back and did not let the court know.

The court did not receive any news, so when they asked, Ly Duy Chu lied that Cao Bien was stationed in Phong Chau and refused to fight the enemy. The king heard the news and was angry, so he sent Vuong An Quyen to replace him and asked Cao Bien to return to question him. That same month, Cao Bien defeated the Nam Chieu army and had been besieging La Thanh for more than 10 days. He was about to take it, but suddenly he received news that Vuong An Quyen and Ly Duy Chu had come to replace him. Cao Bien immediately handed over military power to Vi Trong Te, and returned to the North with a few subordinates. But first, Cao Bien sent someone to secretly return to the capital to report the situation. The Tang king knew the situation and was very happy. He promoted Cao Bien and sent him back to lead the army to attack Nam Chieu.

The lazy Wang An Quan and Li Wei Chu did not attack at all. When Cao Bien returned, they led the troops to attack the city, killing Doan Tu Thien and the native guide Chu Co Dao. Many Man Tho caves in various places asked to surrender.

Giao Chau land had been destroyed by Nam Chieu for only 10 years, until then Cao Bien took it back and brought it back to the Tang Dynasty as before.

9. Cao Bien's Work.

The Tang Dynasty King changed An Nam to Tinh Hai and appointed Cao Bien as the Governor. Cao Bien regulated all work, established border posts to guard against invaders, and collected taxes to spend on public works20. Cao Bien governed the people with rules, so everyone respected him, and therefore he was called Cao Vuong.

Cao Bien rebuilt Dai La citadel on the banks of the To Lich River. The citadel was more than 1982 truong linh 5 thuoc on all four sides, 2 truong linh 6 thuoc high, and built a surrounding dike that was more than 2125 truong linh 8 thuoc long, 1 truong and a half high, and 2 truong thick. Inside the citadel, the people were allowed to build houses with more than 400,000 roofs (?).

History records that Cao Bien used witchcraft to make the Thunder God destroy the rapids in the rivers so that boats could pass. Could that Thunder God have been Cao Bien using gunpowder?

It is also said that Cao Bien saw that our Giao Chau had a lot of imperial land, so he often rode a paper kite to curse the land, destroyed beautiful mountains and rivers, and damaged many dragon veins. These stories are lies, there is no reason to believe them.

In the year At Vi (875), the Tang Dynasty king sent Cao Bien to be the Governor of Tay Xuyen (Tu Xuyen). Bien offered his nephew Cao Tam as the Governor of Giao Chau.

Although the Tang Dynasty regained Giao Chau, China was about to be in chaos, bandits gradually rose up, the king's throne was also about to collapse, China was divided into several countries, so there were also changes in Giao Chau.

10. The Chaos of China.

Considering the story of China from the Han Dynasty until now, each dynasty held political power for a few hundred years, then the country was in chaos, the North and the South were divided to some extent.

It is normal for the chaos to change in a society, but strangely, the times in China were all similar. When the Han Dynasty declined, China had to go through the chaos of the Three Kingdoms; after the Three Kingdoms, there was the unified Jin Dynasty. When the Jin Dynasty declined, there were the Northern and Southern Dynasties; after the Northern and Southern Dynasties, there was the unified Tang Dynasty. Now, the Tang Dynasty has declined and there is the chaos of the Five Dynasties. The opportunity for chaos in China to be similar is probably due to the customs and society of China. Education has not changed, the people in the country have not progressed, and the way of thinking has not been civilized, so although the country has been around for a long time, the social level has remained the same. When there is chaos, only a few powerful people compete with each other, but the people in the country, whenever they see which side is stronger, they will serve that side. The Han Dynasty's kings are the Han people, the Tang Dynasty's kings are the Tang people, everything is blamed on the mandate of heaven, the people can only accept one side.

From the Han Dynasty until the Ngu Quy Dynasty, Giao Chau was still a territory under China, so the chaos in China also affected our country. Thanks to the chaos in China, the Chinese were busy with national affairs, Giao Chau also started to establish itself for three years. However, because the country was small, the people were few, and the people in the country did not know how to unite with each other, did not understand the principles of solidarity, so it did not succeed.

III. The Five Dynasties (907 - 959)

1. The Situation in China.

In the year of Ding Mao (907), the Tang Dynasty lost its throne. The Later Liang, Later Tang, Later Jin, Later Han, and Later Zhou dynasties competed to become king. Each dynasty lasted for a few years, totaling 52 years, called the Five Dynasties or Five Dynasties.

2. The Khuc Family Rises Up. Khuc Thua Du (906 - 907).

A few years before the Tang Dynasty was about to lose its throne, chaos broke out in China, bandits rose up everywhere. The king's authority did not reach outside, whoever had the strongest power would claim to be emperor or king. In Giao Chau, at that time, there was a man with the Khuc family name Thua Du, from Hong Chau (belonging to the Bang Giang and Ninh Giang districts in Hai Duong). Khuc Thua Du was originally a wealthy man in the land, but he was gentle and kind, so many people respected him. In the year Binh Dan (906) of the Tang Dynasty's Emperor Chieu Tuyen, when there was chaos in the province, they appointed him as the Governor to rule Giao Chau. The Tang Dynasty was weak at that time, and could not stop him, so they allowed him to be the Governor of Tinh Hai and granted him the title of Dong Binh Chuong Su.

The following year, the Tang Dynasty lost its throne. The Later Liang Dynasty appointed Liu Yin as the King of Nanping, concurrently serving as the Governor of Guangzhou and Jinghai, with the intention of taking back Jiaozhou. Khuc Thua Du served as Governor for less than a year before passing away, handing over power to his son Khuc Hao.

3. Khuc Hao (907 - 917).

Khuc Hao replaced his father as Governor, established roads, prefectures, districts, and communes in various places, appointed officials, reformed the tax and corvee system, and sent his son Khuc Thua My to Guangzhou as an envoy, supposedly to establish friendship, but in essence to investigate the truth of everything.

Liu An, who was in Guangzhou and established his office in Phien Nung for 4 years, died. His younger brother Liu Cung (formerly known as Liu Nham) took his place. After a short while, due to dissatisfaction with the Later Liang Dynasty, Liu Cung proclaimed himself emperor, and the country's name was Dai Viet. In the year Dinh Suu (947), the country's name was changed to Nam Han.

4. Khuc Thua My (917 - 923).

In the year Dinh Suu (917), Khuc Hao died and passed on his career to his son Khuc Thua My. Khuc Thua My accepted the position of Governor of the Liang Dynasty, but did not submit to the Southern Han Dynasty. The King of the Southern Han Dynasty took this as a grudge. In the year Quy Mui (923), he sent his general Ly Khac Chinh to lead troops to capture Khuc Thua My, then sent Ly Tien to be the governor and guard Giao Chau with Ly Khac Chinh.

5. Yang Yanye and Jiao Gongxian (931 - 938).

In the year of Tan Mao (931), Yang Yanye, a general of Khuc Hao, rose to prominence, recruited troops to drive out Ly Khac Chinh and Ly Tien, and declared himself the Governor. After 6 years, Yang Yanye was killed by his general, Jiao Gongxian, who seized power.

6. Ngo Quyen Destroys the Southern Han Army.

At that time, there was a general of Duong Dien Nghe, Ngo Quyen, who sent troops to attack Kieu Cong Tien to avenge his lord. Ngo Quyen was from Duong Lam village, the same village as Phung Hung in the past (Phu Tho district, Son Tay province). He was an official with Duong Dien Nghe. Duong Dien Nghe saw that he was talented, so he married his daughter to him and appointed him to guard Ai Chau (Thanh Hoa). When he heard that Kieu Cong Tien had killed Duong Dien Nghe, Ngo Quyen immediately sent troops to attack.

Kieu Cong Tien sent troops to ask for help from the Southern Han. The Han Lord took the opportunity to let the crown prince, Hoang Thao, lead the troops first, and personally led the troops to support.

When Hoang Thao's army was approaching Bach Dang River, Ngo Quyen had already killed Kieu Cong Tien (938). On one hand, he ordered his soldiers to be on high alert. On the other hand, he ordered his men to take wooden stakes and stick them underground in Bach Dang River. Then, he waited until the tide rose and sent his troops out to challenge him. The Southern Han army chased after him. When the tide receded, Ngo Quyen returned and attacked. The Southern Han army was defeated and fled. Many boats were stuck in wooden stakes and were broken. More than half of the people died. Hoang Thao was captured by Ngo Quyen and brought back to be killed.

When the Han Lord heard the news, he burst into tears and brought his troops back to Phien Ngung, not daring to cause trouble anymore.

Ngo Quyen killed the traitor internally, avenged his master, and defeated the powerful enemy externally, preserving the country. He was truly a loyal and righteous man whose name will live forever. Thanks to Ngo Quyen, our country was able to throw off the yoke of the Northern domination for more than a thousand years, and paved the way for Dinh, Le, Ly, and Tran, who later became independent in the South.


18 At that time, the Tang Dynasty divided many provinces in China into Protectorates such as Tu Xuyen Protectorate, An Nam Protectorate, etc. So the Protectorate was an official position, not a political entity that ruled over colonies as we understand it now.

19 During the Ngu Quy period of the Later Jin Dynasty, a man named Doan Tu Binh became king and changed the country's name to Dai Ly, which was passed down to the Hong Vo period (1368-1392) when the Ming Dynasty fell. The Ming Dynasty named it Dai Ly Phu, which belonged to the Yunnan province.

20 Some people say that the Vietnamese people had to pay taxes starting from Cao Bien. 50 to 70 years ago, a family rose up to quell the rebellion and pacify the country, and established the foundation of another family.

← Back to Index